Giới thiệu một tuồng xưa,
như là nén hương dâng thầy nhân ngày
giỗ đầu.
Nguyễn Văn Sâm
Năm 1912, ông cựu chánh tổng Lê Quang
Chiểu đem bản văn tuồng hát bội Lý Thiên Long
in ra chữ quốc ngữ. Trước đó ở
dạng chữ Nôm chép tay, tác phẩm nầy phổ
thật là giới hạn, chẳng thế mà ông mới nói
bằng một cụm từ rất đau lòng: Nay tôi đặng bổn sót
... Bổn sót là một tập văn hiếm, ít
người có, lắm khi chỉ còn một bản thôi, có
thể rách mất nhiều trang nhiều chữ.... Từ
năm đó tuồng Lý Thiên Long mới được
phổ biến rộng rãi đến số đông
người ham chuộng văn chương và tuồng hát.
Tuy nhiên, với tinh thần in ấn của
thập niên đầu thế kỷ 20, bản quốc
ngữ của ông Lê Quang Chiểu có nhiều điều
cần phải điều chỉnh về chánh tả,
về cách ngắt câu và nhiều chữ viết theo
giọng đọc quá thuần túy Nam Kỳ của
thời đó. Thiệt sự mà nói, gần một thế
kỷ trước, nguyên việc phiên âm ra quốc ngữ, sửa lại cho xuôi câu thuận
ý - cách nói và cách làm việc của Lê Quang Chiểu - và
đem in đã là một công trạng với văn hóa
nước nhà, ta không thể đòi hỏi nhiều hơn
về tính chất chính xác của một tác phẩm vào
thời mà tình trạng chữ quốc ngữ còn phôi thai và
nhà văn chỉ mới có những khái niệm thật mơ
hồ về văn học Việt Nam, nhất là những
tác phẩm ở dạng quốc ngữ.
Cho phổ biến lại tuồng Lý Thiên Long
lần này, chúng tôi chỉ làm những công việc thật
đơn giản: sưu tầm tài liệu xưa,
ngắt câu cho hợp lý, trình bày rõ ràng theo lối phú của
tuồng hát bội, với những vế đối
xứng và dùng những thể chữ khác nhau tùy theo
giọng nói của nhân vật - nhứt là những chỗ
hường tán - cốt sao cho người đọc
bản văn dễ dàng lãnh hội ý của người
viết tuồng. Nếu tưởng tượng ra
được giọng của nhân vật thì càng tốt.
Một vấn đề căn bản là có
nên sửa chữa cách viết chánh tả của
người xưa vốn quá tuân thủ theo giọng
đọc địa phương hay không. Cuối cùng chúng
tôi quyết định sửa cho hợp với cách
viết chuẩn ngày nay vì nếu cứ dựa trên lý do
tồn cổ, nghi dĩ truyền nghi, in rập lại
bản cũ thì thật là quá dễ, nhưng sự
khiếm khuyết của bản in xưa vẫn còn
nằm nguyên ở đó, người tiếp xúc với
văn bản có thể hiểu lầm năm ba chữ ít
dùng, một vài câu khó hiểu, thậm chí có thể hiểu
sai những ý quan trọng. Và bản tuồng vì vậy
mất cái đặc sắc của nó. Cũng trong
chiều hướng đó, vài sơ chú cần thiết
cũng đã được thêm, vì bản in 1912 không có bất cứ một chú
thích nào. Phần Hán văn của các đoạn hát khách
(loạn), ngâm, xướng, đáng lẽ phải
được tái lập đầy đủàiải
thích, tôi tài hèn, không dám võ đoán, chỉ làm được
bấy nhiêu thôi, với những dè dặt thường
lệ.
* * *
Trước khi in tuồng Lý Thiên Long nầy
chắc rằng ông Lê Quang Chiểu đã sửa lại
bổn cũ đầy đủ ba hồi (ông nói là toàn
truyện đủ ba thứ
và nói luôn những chi tiết quan trọng trong những
hồi sau) nhưng vì lý do nào đó bản in năm 1912
của ông chỉ thấy hết hồi nhứt mà thôi --
cuốn thứ nhứt. Cũng có thể những cuốn
thứ hai, thứ ba đã xuất bản rồi mà chúng tôi
tới giờ này vẫn chưa tìm được. Khổ
nạn đao binh và trình độ dân trí của đất
nước ta ảnh hưởng lên sự tồn vong
của sách vở là vậy. Nay chúng ta là những
người đi sau, còn bao
nhiêu cứ dùng đở bấy nhiêu. Người nầy
tìm, người kia tìm, được gì hay nấy. Ít còn
hơn không, đứa con ốm yếu đui què mẻ
sứt vẫn là con mình, không thể bỏ cho mất luôn.
Ông Chiểu gọi loại hình của tác
phẩm này khi thì là tuồng,
khi thì là truyện. Khi
đề tên tác phẩm bằng chữ quốc ngữ ông
xài chữ tuồng (Tuồng Lý
Thiên Luông), khi dùng chữ Hán ông viết bằng chữ
truyện (Lý Thiên Long Truyện
李天龍傳). Lý do
vì ông dịch cái tựa ra chữ Hán, chứ không phiên âm
từng chữ như chúng ta làm ngày nay. Bây giờ trong
văn học, tuồng và
truyện là những khái niệm hoàn toàn khác nhau về
hình thức. Tuồng là một câu chuyện với
nhiều tình tiết dùng để diễn, để nói,
để nghe, có công dụng phục vụ đồng
thời một số đông quần chúng (một buổi
trình diễn). Tuồng dính liền với sân khấu,
diễn viên và âm nhạc, cần thêm nhiều người
phụ để dựng tuồng với dụng cụ, y
trang và không gian. Khi tuồng không được trình
diễn, nó nằm trơ dưới dạng một văn
bản văn học và chỉ phục vụ cho một
người đọc mà thôi thì nó vẫn là một bản tuồng vì tính
cách đối thoại, ca diễn vẫn ẩn tàng trong
kịch bản. Truyện, trái lại dùng để
đọc, để xem, phục vụ một lần
một người hay vài ba người (một lần
đọc). Truyện dính liền với văn
chương và tư tưởng, giao tiếp thẳng
với độc giả và thính giả mà không cần
nhiều đến những thứ phụ thuộc khác ngoài
văn bản. Truyện có thể gần với truyện
kể, chủ yếu là sự mô tả tình tiết của
tác giả, đối thoại không phải là phần chánh,
có âm nhạc phụ họa càng tốt nhưng không nhất
thiết. Truyện biến thành tuồng hay tuồng
biến thành truyện đều phải được
viết lại theo kỷ thuật của mỗi thể
loại.
Nghe nói tuồng Lý Thiên Long này còn có bản
quốc ngữ khác với tựa là Tuồng Tứ Linh. Cũng như trên, cho tới
giờ này, chúng tôi chưa tìm thấy.
Trong sưu tập 41 tác phẩm Nôm viết tay
-- hầu hết là tuồng hát bội--- mà Thư Viện
Anh Quốc ở Luân Đốn (British Library) làm bản sao
tặng cho chánh phủ Việt Nam Cộng Hòa trước
đây (1971) -- dưới thời Quốc Vụ Khanh
Văn Hóa Mai Thọ Truyền -- tôi nhớ mình có thấy
tuồng Lý Thiên Long trong danh sách, nhưng cho đến
giờ vẫn chưa được cơ may có bản sao
để phiên âm hay ít ra cũng để so sánh với
bản quốc ngữ của ông Lê Quang Chiểu.
Công việc sửa lại bổn cũ
của giai đoạn đầu thế kỳ 20 nói chung
có giá trị văn chương đến mức
độ nào đó, không ai có quyền xổ toẹt các công
trình này. Việc làm của những tác giả sửa
lại bổn cũ ở giai đoạn đầu
thế kỷ 20 là công việc đáng hoan nghênh hơn chê
trách. Cho nên có hay không có bản Nôm, các bản quốc
ngữ về tuồng hát bội, truyện thơ,
thơ-tuồng vẫn đáng được trân tàng.
Bản quốc ngữ của Lê Quang Chiểu vì vậy
đáng được coi là một trong những thoại
rất quan trọng về tuồng Lý Thiên Long. Giới
thiệu bản Nôm và bản phiên âm là chuyện cần
thiết, nhưng giới thiệu các bản quốc
ngữ cũng là việc đáng làm.
Ông Lê Quang Chiểu rất có công khi mách
rằng mình nghe người lớp trước nói lại
tác phẩm nầy do Tổng Đốc An Giang Cao Hữu
Dực viết ra, về sau ông Nguyễn Văn Hàng
nhuận sắc, mình nhuận sắc một lần nữa
cho tráng câu xứng đối rồi cho in bản quốc
ngữ. Nếu không có lời nói đó bây giờ chắc
rằng ta không thể nào xác định một chút gì
về tác giả.... Ông Nguyễn
Văn Hàng chỉ là một nhà nho bình thường nào đó
ở cuối thế kỷ 19 ta khó tìm tiểu sử. Tìm
tiểu sử ông Cao Hữu Dực không khó, Quốc Triều Đăng Khoa Lục và Quốc Triều Hương Khoa
Lục cũng như các quyển sử triều
Nguyễn chắc chắn không nhiều thì ít có nhắc
đến ông. Một vài tài liệu đó đây ghi ông là
người quê huyện Phong Điền, Thừa Thiên,
đậu Hương Tiến năm Ất Dậu 1825, làm
chức Bố Chánh Sứ An Giang năm Mậu Thân
đời Thiệu Trị (1848) sau đó đổi làm Án
Sát Sứ cũng tỉnh An Giang. Khi mất được
truy tặng Hiệp Biện Đại Học Sĩ.
Vậy ông là người của văn học và của
xứ chuyên về tuồng, lời mách rằng ông viết
tuồng Lý Thiên Long này có thể tin được.
Trường hợp Cao Hữu Dực cũng
giống như trường hợp Ngụy Khắc
Đản với tuồng Ngũ
Hổ Bình Tây hay Bùi Hữu Nghĩa với Tuồng Tây Du. Người ta
không thấy tên tác giả ở trên bản Nôm, cũng không
thấy nhắc đến tuồng Ngũ Hổ Bình Tây khi đọc về tiểu
sử của Ngụy Khắc Đản, chỉ thấy
tên ông ở một mẩu quảng cáo hồi đầu
thế kỷ về bản in quốc ngữ của
tuồng này. Về Tuồng Tây
Du, cũng tương tợ, bản Nôm không có dòng nào
đề tên tác giả, trong khi giới thiệu tuồng Kim Thạch Kỳ Duyên, ông Nam
Cư Nguyễn Đình Triêm, hậu duệ của
Nguyễn Đình Chiểu, một nhà nghiên cứu văn
học Miền Nam mới nói lần đầu tiên rằng
Bùi Hữu Nghĩa cũng là tác giả tuồng này, ông không
cho biết mình lấy chứng cớ từ đâu, dầu
rằng trước đó nữ sĩ Đạm
Phương viết trong Nam Phong Tạp Chí có nhắc
đến tuồng Tây Du nhưng đã không nói gì
đến tác giả. Văn học sử Việt Nam
đầy rẫy những điều bắt buộc
phải tin với một chút nghi ngờ tương tợ
như vậy. Và chúng ta chỉ còn biết dựa trên
những điều mách khả tín mà cũng khả ngờ
cho đến khi nào có những tài liệu gì chính xác hơn
được phát hiện.
Trong khi đọc báo Nông Cổ Mín Đàm, chúng tôi thấy trên số 417,
ngày Thứ Ba 22 tháng Ba năm 1910 và những số kế
tiếp, lúc Chánh Chủ Bút Lê Văn Trung và Phó Chủ Bút
Nguyễn Chánh Sắt, mẫu quảng cáo như sau : Những tuồng mới in
đây là của ông Cao Hữu Dực, cựu Tổng
Đốc trấn tỉnh An Giang. Tuồng Ô Thước, bộ 4 thứ 0$80, tuồng
Ngũ Hổ Bình Tây 1, 2, 3 giá 0$25, Tuồng Tống Từ
Vân đang in… như vậy thì chúng ta biết
được rằng tuồng Tống
Từ Vân và tuồng Ô
Thước là của Cao Hữu Dực. Còn tuồng Ngũ Hổ Bình Tây thì
trước đây GS Lê Ngọc Trụ có tìm
được mẫu quảng cáo nói là của Nguỵ
Khắc Đản. Tôi giải quyết chuyện một
bản tuồng hai tác giả nầy bằng giả
thuyết có hai bổn tuồng
Ngũ Hổ Bình Tây khác nhau. Tạm gọi bản
quốc ngữ mà GS Trần Văn Hương giới
thiệu do nhà xuất bản Khai Trí in là bản Nguỵ
Khắc Đản, còn một bản khác nữa là bản
Cao Hữu Dực (hay ngược lại). Tiếc thay, ngày
nay ta thấy mẩu quảng cáo, nhưng quyển sách thì
chẳng thấy đâu! Chờ những cơ may khác
vậy.
Viết tuồng bát bội là sở
trường của người miền Trung, ông Cao
Hữu Dực khi làm quan trong miền cực Nam của
đất nước có thể đã viết tuồng vì
nhớ quê hương, nhớ đến một phong vị
văn nghệ đặc biệt của nơi chôn nhao
cắt rún. Cũng có thể ông viết như một
bộc bạch nỗi lòng trung quân ái quốc vì đời
khoa hoạn của ông vốn nhiều truân chuyên và lắm
lần bị hiểu lầm cùng dị nghị. Một
kiểu Ly Tao của Khuất Nguyên! Những hình
tượng ông dùng trong tuồng này có thể bị chê trách
là không mới mẽ gì, ta thường thấy các nhân
vật và sự kiện tương tợ ở các
tuồng khác trong kho tàng tuồng hát bội của Việt
Nam: chánh-- tà, đi thi vì mẹ khuyến khích, dự
định cướp ngôi và những biến chuyển
chung quanh cuộc cung đình chính biến với các nhân
vật trung thật trung, nịnh thật nịnh và các
bậc tiên thánh nhúng tay vào cõi phàm để thúc đẩy
cho những việc trung dũng sớm thành tựu.
Con người thường bị giới
hạn bởi môi trường chung quanh. Tất cả
tuồng khác nói chung đều đi theo một mô thức
thì ta không thể đòi hỏi một Cao Hữu Dực hay
ai khác của thời kỳ này viết ra những gì
thật là mới mẻ so với thời đại.
Tiếc rằng bản quốc ngữ
nầy chỉ có hồi Thứ Nhứt (hồi một) mà
thôi. Nếu ông Lê Quang Chiểu trước đây công
bố luôn các hồi kế tiếp thì có nghĩa là ông
đã sửa lại luôn các hồi 2 và 3. Sự sửa
đổi nào cũng đem theo cái hay riêng, nguyên bản
chữ Nôm nếu được phiên âm chắc chắn
gần ý tác giả nhưng sẽ không hay bằng bản đã được nhuận
sắc. Tiếc thay, chuyện đó đã không xảy ra
hay đã xảy ra rồi mà chúng ta chưa có hân hạnh tìm
thấy.
Chúng tôi cố gắng giải quyết
trường hợp này trong những năm tới
để cống hiến bạn đọc một
Tuồng Lý Thiên Long đầy đủ, có được
cả bản Nôm càng tốt.
Để dễ dàng cho người
đọc, tôi phân hồi nầy ra làm 13 tiết nhỏ tùy
theo cảnh trong tuồng. Các tiết này dài ngắn khác nhau,
kết chung lại thành ra những diễn biến của
toàn hồi. Nhắc lại, trong tuồng hát bội,
lời nói là yếu tố quan trọng hàng đầu, hành
vi của nhân vật hay cả sự kiện xảy ra
cũng đều được tác giả chuyển hóa
thành lời cho nên dưới con mắt ngày nay ta có thể
thấy nhiều tiết dư thừa, nhưng thật ra
mỗi tiết đều có giá trị nối kết
với các tiết khác tạo nên một chuổi sự
kiện cấu thành tuồng, khiến cho phần đông
khán giả bình dân dễ dàng nắm vững sự diễn
biến của toàn tuồng. Cũng nên nhắc lại
người xưa đi coi hát bội thường không
nhất thiết phải đến rạp lúc tuồng
mới bắt đầu, họ có thể đến
bất cứ lúc nào vì nhiều lý do trong đó có lý do bói
tuồng, những lời nói dư thừa chắc chắn
là có liên quan ít nhiều đến chuyện bói tuồng.
Hát bội cũng không có đoạn mở
đầu giới thiệu về thời gian, về nhân
vật, tất cả những khái niệm này một
lần nữa được tác giả dùng lời nói
của nhân vật để giới thiệu nên phải
được chuyển thành lời
giáo đầu khi nhơn vật mới xuất hiện.
Ta sẽ không lấy làm lạ khi thấy nhân vật
bước ra xưng tên tuổi quê quán, sở thích,
điều mình kỳ vọng, ngay cả những âm mưu
đen tối vốn là những chuyện.... không cần
nói ra đối với nhân vật trong tiểu thuyết
hay kịch ngày nay, ngược lại đó là điều
cần thiết sinh tử của thể loại hát
bội, cần thiết ở thời kỳ hát bội
thạnh hành cũng như khi tàn lụn, sở dĩ ta
thấy nó quê quê dư dư vì ta nhìn nó với nhãn quan
của người đời nay vốn quen với hình
thức cấu tạo của kịch tây phương
đã qua quá nhiều cải biên, chỉnh đốn ...
Các tiết của hồi Thứ Nhất này
có thể được chia như sau đây, lời tóm
đại ý của tiết là của chúng tôi:
I.1 Nghe lời mẹ, Lý Thiên Long tầm sư
học đạo.
I.2. Đoán việc sau, Lý Chơn Nhơn khuyên
đệ tử ứng thi.
I.3. Cần hiền ngỏ, Tống
Vương sai mở hội tuyển nhân tài.
I.4. Vưng lời khuyên, Lý Thiên Long lên
đường tìm sự nghiệp.
I.5. Trễ hội thí, Vương Họa Lân
ngao du sơn thủy.
I.6. Hiểu lòng nhau, Đào Thế
Sĩ/Vương Họa Lân già trẻ kết thân.
I.7. Kết quả kỳ thi, Lý Thiên Long thành
Quấc Trạng.
I. 8. Muốn thêm vây cánh, Thái Sư dùng chỉ
đỏ buộc Trạng Nguyên.
I. 9. Lãnh quyền chức, Sơn Qui ra
đồng quan trấn nhậm.
I.10. Ngừa phản thần, Lý mẫu
dạy con nghĩa trung quân.
I.11. Bảo toàn thân, Đào Thế Sĩ cáo lão
về quê.
I.12. Lạc Sơn lãnh, Thế Sĩ tái phùng
người bạn trẻ.
I.13. Đem lòng xấu, Thiên Thành mưu toan
cướp nước.
I.14. Thử lòng nhau, Thiên Long , Thể Phụng
tỏ lòng trung.
Cuối cùng thì hay bên hiểu nhau và
đồng lòng sẽ thực hiện lòng trung quân ái
quốc của mình mặc dầu sẽ kinh qua bao nguy
hiểm gian nan. Tuồng có thể chấm dứt ở
đây với sự hàm ngụ hai người sẽ
thực hiện công việc trừ nguy diệt bạo trong
tương lai, chuyện thành công hay thất bại
được bỏ lửng lơ cho người
đọc/xem muốn hiểu thế nào thì hiểu.
Nhưng người xưa không bao giờ
kết thúc tác phẩm của mình một cách lơ lửng
như vậy. Ông Lê Quang Chiểu đã mách rằng còn có các
hồi 2, 3. Chắc chắn là những nhân vật chính
diện sẽ gặp rất nhiều khó khăn khi
đối đầu với những nhân vật phản
diện. Tiếc quá ta không được đọc. Hi
vọng trong tương lai gần chúng ta sẽ đọc
được bản phiên âm tuồng Lý Thiên Long của
Thư Viện Anh Quốc hay ít ra cũng được
đọc tuồng Tứ Linh! Với tình hình văn
học kì hoặc như hiện nay, thời gian chờ
đợi chắc chắn sẽ rất dài!
Tuồng nào cũng vậy tác giả sử
dụng thật nhiều thành ngữ tục ngữ, các trạng
từ mô tả tâm tình một cách vũ lộng mà chúng ta ít
thấy ở tác phẩm của nhà văn hiện
đại. Có thể tác giả tuồng gần với
đám đông quần chúng hơn? Chúng tôi xin nhường
sự nhận xét chi tiết về mặt văn
chương và sự hay dở về mặt cấu
tạo tuồng tích cho các độc giả.
Thiết nghĩ cũng nên ghi lại đây
một ít chi tiết về người sửa lại
bổn cũ tuồng Lý Thiên Long này.
Ông Lê Quang Chiểu (1853- 1924) là học trò
của Phan Văn Trị, là một người khí
tiết, sống thanh bạch, có làm nhiều bài thơ
vịnh nói chí khí mình, nỗi tiếng nhứt là
mười bài họa lại thập thủ liên
hườn của Tôn Thọ Tường (giống như
trường hợp của thầy ông là Phan Văn
Trị). Năm 1903 ông xuất bản quyển Quốc Âm Thi Hiệp Tuyển
là một tuyển tập có giá trị lịch sử vì
hầu hết các bài thơ trong đấy đều
được trình làng lần đầu tiên. Theo ông Phan
Văn Thiết, trong quyển Nam
Thi Hiệp Tuyển, Sàigòn, 1948, Lê Quang Chiểu 'là
một văn sĩ có danh ở Nam Kỳ, quê quán ở Phong
Điền (Cần Thơ) ông là một người
đồng thời nhưng trẻ hơn các ông Tôn Thọ
Tường, Phan Văn Trị và Nguyễn Đình
Chiểu... Ông có làm nhiều thơ văn, phần nhiều
là thơ Nôm, rất được truyền tụng, ông
thường xướng họa với bà nữ văn
sĩ Trần Ngọc Lầu...'
Một trong những bài thác chí mình, không sợ
phiền lòng người Pháp là bài Khóc Ông Phan Thanh Giản, vốn được
lưu truyền rộng rãi trong Nam:
Quan
Phan tiết nghĩa sánh cao dày,
Thương
bấy vì đâu khiến chẳng may.
Hết
dạ thờ vua trời đất biết,
Nát lòng
vì nước quỷ thần hay.
Tuyệt
lương một tháng rau xanh mặt,
Bị
quở ba phen lửa cháy mày.
Chỉn
sợ sử thần biên chẳng hết,
Tấm
lòng ấm ức phải thày lay.
Giống như công việc chúng tôi làm ở
các quyển sưu tầm tương tợ, trong quá trình
hình thành, chúng tôi có hội ý và được sự
hướng dẫn tận tình của Giáo Sư Nguyễn
Khắc Kham, nên xin nhân dịp này ghi lại đây lòng
biết ân của kẻ hậu học đối với
bậc Thày, Sẵn đây chúng tôi cũng thấy mình
cần đưa ra cái thơ Giáo Sư Kham đã thảo
như tiêu chí để mở một tủ sách nhằm
cung cấp các tài liệu khó tìm mà quyển Lý Thiên Long
nầy là quyển sách tầu tiên trong tủ sách Bảo
Tồn theo như dự định..
‘Lâu lắm rồi, chúng tôi muốn giới
thiệu với độc giả những quyển sách
hiếm trên thị trường vì các bản in xưa theo
thời gian đã hết. In lại để tác phẩm
được tới tay nhiều người đọc
hơn, in lại còn là cách để các học giả có
dịp nhìn lại những tác phẩm vốn thiệt thòi
vì lâu nay không có mặt trên thị trường hay những
những thư viện rộng mở cho người dân
tham khảo. Tủ sách Bảo Tồn ở trong chiều
hướng đó, đem đến tận tay
người đọc những tác phẩm hiếm.’
‘Sự sưu tập cũng như in ấn
đòi hỏi thời gian cho nên mặc dù dự
định đã lâu, đến hôm nay mới thực
hiện được công trình nhỏ này. Chúng tôi không in
nhiều, mỗi quyển chừng một trăm ấn
bản, cốt là để bảo tồn tác phẩm cho
người sau có cơ sở thực hiện những công
trình lớn hơn.’
‘Kinh nghiệm về những khó khăn khi
đi tìm tài liệu bấy lâu nay khiến chúng tôi nghĩ
đến việc thực hiện tủ sách này. Mong
được đồng tình của các bạn
đọc. Quý vị nào có những quyển sách xưa nghĩ
rằng đáng được phổ biến có thể
liên lạc hay cung cấp bản sao cho chúng tôi để
tủ sách Bảo Tồn được ngày càng lớn
mạnh. Chúng tôi vô cùng biết ơn nếu được
ủng hộ tinh thần cách này hay cách khác từ phía
bạn đọc.’
Nguyễn
Văn Sâm (Tháng Ba, 1997)
[Viết thêm
nhân ngày giổ đầu của thầy] Chỉ tiếc
rằng lực bất tòng tâm, chuyện sưu tầm sách
tưởng khó mà dễ, chuyện in sách tưởng
dễ mà khó, vài quyển sách lạ đã sưu tầm
được, sẵn sàng để in, nhưng rồi
khả năng thực tế không bao giờ cho phép, cho
đến khi thầy mất gần mười năm sau
đó. Buồn thay thầy ơi!